Quán tự tại là hành động thiết thực chính yếu của những người tu tập theo đạo giải thoát. Việc thực hành quán chiếu này giúp cho chúng t...
Quán tự tại là hành động thiết thực chính yếu của những người tu tập theo đạo giải thoát. Việc thực hành quán chiếu này giúp cho chúng ta thay đổi thái độ nhận thức chủ quan, phiến diện, rập khuôn, phỏng đoán do tích lũy một số kiến thức vay mượn khô cứng. Quán tự tại chính là soi chiếu thân tâm mình và hoàn cảnh đang diễn ra ngay nơi sự sống đương tại. Khả năng quán chiếu thâm sâu này giúp ta thấy rõ tánh, tướng, thể, dụng của vạn pháp trong chuỗi vận hành tương giao tất yếu, phá vỡ thói quen nhận định sai lầm về một cái ta hiện hữu riêng biệt.
Thực chất, vạn pháp ẩn tàng hay biểu hiện là tùy thuộc vào hành vi tạo tác của mỗi chúng sinh mà hình thành tiến trình nhân – duyên – quả tương ứng. Trong Bát-nhã Tâm Kinh, đức Thế Tôn có dạy về việc pháp quán chiếu thâm sâu mà một vị hành giả cần phải thông hiểu.“Bồ-tát quán tự tại, khi quán chiếu thâm sâu Bát-nhã-ba-la-mật tức diệu pháp trí độ, bỗng soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, thực chứng điều ấy xong, Ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn…”. (Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, tr.246). Tự tại có nghĩa là tự do, là giải thoát, không chối bỏ loại trừ hay vướng mắc sở hữu. Quán là nhìn sâu vào hiện thực, không khởi tâm chọn lựa, nắm bắt, thêm bớt theo ý tưởng chủ quan cá nhân. Quán chiếu cũng không phải ngồi một chỗ lim dim đôi mắt để liên tưởng, vẽ vời cắt xén hiện thực theo ý đồ tham vọng của bản ngã hoặc đợi đến khi gặp phải sự cố xảy ra rồi mới bắt đầu tìm cách thực hiện. Mà quán chiếu chính là buông xuống các ý niệm lăng xăng tìm cầu để cho tâm hồn trở nên định tĩnh và trong sáng. Quán tự tại, thực chất là hiện trạng các pháp đang diễn ra như thế nào ta rõ biết y như thế đó, mà cụ thể là ngay trong khi đi đứng, ăn uống, nói năng, làm việc v.v…
Trong Kinh Niệm Xứ, đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời” (Trung Bộ I, tr.132). Quán chiếu về thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng của tâm ý với sự nhiệt tâm, chánh niệm, tỉnh giác không có nghĩa là tạo ra chủ thể và đối tượng có tính tách biệt nhau, mà chỉ đơn thuần rõ biết trọn vẹn trên hiện thực ấy. Nghĩa là trên cơ thể ta nóng lạnh, mềm cứng, hơi thở vào và hơi thở ra, ngắn dài như thế nào thì bạn nhận biết y như thế đó chứ không uốn nắn, điều khiển theo ý tưởng chủ quan của mình. Nếu bạn thực sự không bị thói quen phân biệt, thêm bớt và định đoạt theo lập trình của bản ngã thì trí tuệ Ba-la-mật tức thời hiện hữu, soi chiếu toàn bộ tiến trình động dụng tương tác của sắc-thọ-tưởng-hành-thức (năm uẩn) là vô thường, khổ và vô ngã.
Sắc thân có mặt là do nhiều yếu tố kết hợp lại hình thành, và nó luôn luôn biến chuyển không ngừng. Những cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức cũng vậy, không có tự thể riêng biệt cố định, chúng chỉ nương vào nhau mà hiện khởi. Sự sinh diệt, đổi thay là quy luật tất yếu muôn thủa của cuộc sống, bạn không thể nắm giữ lại cái gì cho riêng mình và cũng không có cái gì tồn tại lâu dài cho bạn nắm bắt. Nếu bạn quán chiếu được như thế thì bóng dáng của phiền não tham sân si không có cơ hội sinh khởi, bạn dễ dàng vượt thoát mọi khổ đau trói buộc, sống an nhiên tự tại giữa cuộc đời, và sự thành đạt này chính là hành trạng tự lơi, lợi tha của một vị Bồ-tát đích thực trong cuộc đời.
Bồ-tát Quán Tự Tại là cách dịch khác của Bồ-tát Quán Thế Âm. Một trong những ý nghĩa thâm sâu của đức Quán Thế Âm là thực hành hạnh lắng nghe viên mãn. Trong cái nghe chỉ là lắng nghe, không phản ứng thêm thắt lựa chọn, nhờ vậy Ngài vượt thoát mọi khổ đau ách nạn, tình thương yêu tỏa khắp đến với mọi loài chúng sinh. Chúng ta cũng có thể làm được như thế, nếu ta biết sống có chánh niệm tỉnh thức trong mỗi giây phút, vì điều kiện để thành tựu một vị Bồ-tát là phải có chất liệu của niệm, định và tuệ.
Nội dung danh hiệu của đức Quán Thế Âm mà Thế Tôn chỉ dạy đó là, hành giả thấy biết rõ ràng về mọi động dụng dấy khởi từ thân tâm và hiện cảnh đương tại. Khi tâm ta không dừng lại hoặc vướng kẹt vào đâu thì tự động bạn sẽ nghe rõ những tiếng thì thầm, lao xao xảy ra trong tự tâm mình. Âm thanh vọng động ấy chính là những chúng sinh đang bị giam hãm trong vùng tối tăm khổ não, chỉ có Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại (chánh niệm tỉnh giác) mới có thể thấu hiểu và cứu độ chúng sinh (vọng tưởng) từ chốn mê lầm trở về bến giác ai vui! Đây là vấn đề trọng yếu, người học đạo cần phải thực nghiệm và thường trực quán chiếu để thấy ra được tự tính mầu nhiệm này. Và nếu ta thường quán niệm được như thế, thì đến khi nghe một ai đó nói ra, dù câu nói ấy chứa đựng sự trách móc, bực bội hoặc khen ngợi, ca tụng thì với năng lượng chánh niệm hùng hậu sẽ giúp ta giữ được thái độ trầm tĩnh và bình thản để lắng nghe trọn vẹn những điều người kia nói.
Nếu bạn nôn nóng, thiếu sự định tĩnh và thiếu lòng kham nhẫn thì không thể nào lắng nghe hết những tâm tư uẩn khúc của người muốn nói. Người trầm tĩnh sáng suốt thì biết quan sát khách quan mọi sự vật theo bản chất tự nhiên, sẽ không vội vàng phản ứng một cách vô thức, vì họ biết rằng bất cứ điều gì xảy ra đều có nguyên nhân và điều kiện của nó theo qui trình vận hành tự nhiên của nhân quả. Ngay cả khi bạn cố gắng nỗ lực tu hành với tham vọng loại bỏ phiền não khổ đau để sớm đạt đến lý tưởng an lạc giải thoát, cũng chứng tỏ rằng bạn thiếu kiên nhẫn trong quá trình quán chiếu khách quan để thấy ra bản chất thực của chúng. Do đó, Quán tự tại là trở về trọn vẹn với chính mình để khám phá cái thực tại đang là chứ không phải mong cầu sở đắc ở tương lai.
Thiết nghĩ, sống trên đời này, ai ai cũng mong muốn có được hạnh phúc an vui, nhưng tiếc thay đa phần con người thường hay bị dính mắc vào lời nói êm dịu, ngọt ngào và ngược lại khó chịu, chán ghét khi nghe ai đó nói những lời chua chát, nặng nề. Thái độ tiếp nhận chọn lựa như thế sẽ không mấy đem lại hạnh phúc an vui cho tự thân và cho cả người đang nói. Đành rằng, tiếp chuyện với những người biết sử dụng ngôn từ hòa ái, thân thương là cơ hội quý giá để cho mình học hỏi tiến bộ thêm hơn, nhưng nếu ta chỉ ưa thích và dừng lại ở phạm vi ấy, thì khổ đau sẽ nhiều hơn hạnh phúc. Bởi, hiếm người có thể sử dụng được hoàn toàn những lời nói ái ngữ chân thật với nhau, vì khi họ chưa giác ngộ giải thoát thì không thể nào tránh khỏi những vụng về, sơ suất trong mối quan hệ giao tiếp, đó là lẽ đương nhiên! Chính bản thân ta cũng thế, lắm lúc thiếu chánh niệm tỉnh thức cũng dễ phạm phải những hành xử thô tháo, cộc lốc với bạn bè lối xóm. Vì vậy cho nên, việc quán niệm lắng nghe là chất liệu tất yếu để xây đắp hạnh phúc gia đình và cộng đồng xã hội.
Để khả năng lắng nghe có hiệu quả, truyền thông tốt với mọi người chung quanh, đòi hỏi bạn cần phải sống trong chánh niệm tỉnh thức, hay nói cách khác là khi bạn làm việc gì đều phải có ý có tứ theo như lời mẹ dạy, tức là tâm hồn bạn thường định tĩnh và sáng suốt trong mọi lúc mọi nơi. Nếu tâm trí bạn trong suốt như một tấm gương thì sẽ tự động soi chiếu được mọi vấn đề diễn ra trong đời sống một cách trung thực, khách quan và chính xác. Lúc bấy giờ, dù bất cứ nơi đâu bạn cũng vẫn thong dong tự tại, làm tất cả mọi công việc nhưng tâm chẳng bám trụ dính mắc, như đôi bàn tay khéo léo không nắm giữ lại cái gì sau khi đã hoàn thành xong công việc.
Viên Ngộ
BÌNH LUẬN