Đàn Dược Sư được thiết lập để kỳ an Gia đạo và Bổn mệnh. Cầu nguyện Phong điều Vũ thuận, Quốc Thái Dân An. Tùy theo tính chất và bổn nguyện ...
Đàn Dược Sư được thiết lập để kỳ an Gia đạo và Bổn mệnh. Cầu nguyện Phong điều Vũ thuận, Quốc Thái Dân An. Tùy theo tính chất và bổn nguyện mà Đàn tràng được thiết lập lớn nhỏ, thời gian dài ngắn. Vào dịp đầu năm, các Chùa thường tổ chức Đàn này. Cung thỉnh Các vị Chư Tôn Trưởng lão Chứng minh và luân phiên trì tụng Kinh Dược Sư Bổn Nguyện để cầu nguyện chung cho tất cả Phật tử. Ngoài ra. Khi tư gia có tai nạn hoặc người lâm bịnh nặng, ngoài việc chữa trị bằng Đông, Tây y thì cũng có thể kiến lập Đàn này để cầu nguyện.
Quan cảnh một Đàn Dược Sư
Như vậy, ngoài ý nghĩa dùng Dược lực từ Đông, Tây y để chữa trị, Pháp lập đàn Dược Sư là phương pháp dùng Tín lực để chữa trị, cầu nguyện được sự gia trì của Chư Phật. Trong sự Tín lực này cũng có hai duyên:
Nội duyên: Nghĩa là tự mình cầu Phật và niệm Phật,tin tưởng nơi đức Phật hộ trì, mặt khác niệm Phật thì tự tâm trong lặng, không khởi lên dục vọng thất tình, bệnh tất mau lành.
Ngoại duyên: Nghĩa là do những người trong gia đình tụng kinh, lễ bái giúp vào. Hoặc thỉnh chư Tăng, chư thiện hữu trợ duyên lễ Phật, tụng kinh để đem tâm tưởng tha lực phù trì, hiệp cùng tự lực, tất nhiên có được một năng động lực mạnh mẽ mà khiển bệnh tình chóng dứt.
Muốn đạt được sự lý dùng sức tin tưởng trị liệu, người Phật tử cần phải biết rõ nghi thức tụng kinh Dược sư, tụng thường hay tụng hội.
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Tụng thường: Nghiã là đối trước bàn Phật mà đem kinh Dược sư ra tụng, nhất tâm cầu nguyện hồi hướng công đức để cho người bệnh chóng được bình phục.
Việc tụng này có thể tổ chức ngay tại trong gia đình hay cầu thỉnh một vị Tăng tụng cho ở chùa cũng được, điều cốt nhất là người cầu tụng cũng như người tụng đều phải chí thành. Gia chủ tín thành nhưng thầy tụng có tính cách là sự tụng thuê, miễn sao xong việc thì thôi, thì không có công hiệu. Ngược lại người tụng kinh chí thành mà người gia chủ coi là một sự bất đắc dĩ phải chiều ý mà tổ chức tụng chứ không thật tâm muốn tụng, hoặc cố tổ chức cho có tiếng vang đối với bạn bè, hàng xóm v.v...nghĩa là có tính cách cầu danh thì cũng không lợi lạc. Về cách trang biện lễ vật thì cứ tùy tâm biện lễ, cốt được thanh tịnh là hơn.
Tụng hội: Tức là tổ chức lễ đàn Dược sư có bảy vị ngồi tụng hoặc có bảy khu, mỗi khu có bảy vị gọi là đàn Dược sư thất khu.
Việc tụng kinh Dược sư hội cần nên chú ý mấy điểm sau đây:
1. THIẾT LẬP ÐÀN TRÀNG:
Ðàn Dược sư có thể thiết lập tại nhà cũng như tại chùa chia làm 7 khu có 7 hình tượng Phật, có tràng phan, bảo cái:
THẤT PHẬT TRỢ TUYÊN DƯƠNG
- Nam mô Tỳ Bà Thi Phật
- Nam mô Thi Khí Phật
- Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
- Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
- Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật
- Nam mô Ca Diếp Phật
- Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
BÁT ÐẠI BỒ TÁT GIÁNG CÁT TƯỜNG
- Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
- Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
- Nam mô Ðắc Ðại Thế Bồ Tát
- Nam mô Vô Tận Ý Bồ Tát _Nam mô Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát
- Nam mô Dước Vương Bồ Tát
- Nam mô Dược Thượng Bồ Tát
- Nam mô Di Lặc Bồ Tát
THẬP NHỊ DƯỢC XOA ÐẠI TƯỚNG
- Cung Tỳ La Ðại tướng
- Phạt Triết La Ðại tướng
- Mê Xí La Ðại tướng
- An Ðể La Ðại tướng
- Án Nể La Ðai tướng
- San Ðề La Ðại tướng
- Nhân Ðạt La Ðại tướng
- Ba Di La Ðại tướng
- Ma Hồ La Ðại tướng
- Thân Ðạt La Ðại tướng
- Chiêu Ðỗ La Ðại tướng
- Tỳ Yết La Ðại tướng
Bảy khu được phân định ra:
Trung Ương - Thượng phương - Hạ phương - Ðông phương - Nam phương - Tây phương - Bắc phương.
Mỗi khu được đặt 1 cái bàn và 7 ghế ngồi, nếu là tụng 49 vị và mỗi bàn 1 ghế ngồi, nếu chỉ có 7 vị ngồi tụng. Về việc bày bàn nên xếp đặt theo 2 phương thức tùy theo vị trí chỗ thiết lập: _ Xếp ngang _ bày bàn cùng hướng lên một hướng song song ngang nhau, hoặc giữa 3 bàn và 4 bàn lui xuống một chút.
Xếp theo phương hướng - Trung Ương 3 bàn, rồi 4 bàn 4 phía đâu vào. (Nhìn thấy 5 bàn một hàng ngang, 3 bàn một hàng dọc). Trung Ương đàn nên được bày biện nguy nga hơn hết và đó là chỗ vị Sám chủ ngồi tụng, nếu được ngoảnh mặt về phương Ðông thì tốt hơn hết.
2. VẬT PHẨM TRANG TRÍ.
Về thức vật bày biện phải có đủ mỗi bàn:
a) Ðầy đủ: Một tượng Phật - Một bát hương - Hai cây nến (đăng) - Hai bình hoa - Hai mâm quả (Năm thứ quả, có năm mầu) – Trà – Thực (thực vật ăn được như oản khảo hay oản nếp hoặc xôi chè v.v...) Về vật phẩm cúng dàng nên y theo lục cúng tức là ở món chay tịnh.
b) Giản tiện: Một bát hương - Một cây nến - Một bình hoa
3. VIỆC THỈNH NGƯỜI TỤNG KINH
Trong hội Dược sư ít nhất cũng nên có một vị Ðại Ðức Tăng chủ lễ, nếu được 7 vị Tăng hoắc Ni chia ra đứng chủ mỗi bàn thì càng quí hóa. Trường hợp không thỉnh được vị Tăng thì cũng có hàng cư sĩ có đức hạnh đáng tôn làm chủ lễ. Tất cả những vị trong đàn đều phải ăn mặc tề chỉnh (có áo tràng) và nếu có thể nên được chay tịnh ba ngày hay một ngày trước khi vào đàn. Những vị tham dự tụng kinh Dược sư hội nên giữ những điều cấm sau đây:
- Không nên ăn trầu trong khi tụng kinh
- Không nên hút thuốc
- Không nên chuyện trò, cười nói trong lúc tụng kinh cũng như trước khi tụng kinh
- Không nên vừa tụng kinh vừa quạt phì phà, phì phạch hoặc vặn mình nghiêng bên nọ, ngã bên kia.
Ðối với gia chủ phải giữ tuyệt đối những điều răng cấm sau đây:
- Không sát sanh.
- Không mời thầy bùa chú nguyện.
- Không cầu ma đảo quỉ, tin thầy yêu nghiệt.
Phải thực tâm hồi hướng bằng cách làm các việc phúc đức:
- Ấn tống kinh sách
- Làm việc bố thí
- Tổ chức phóng sanh
Ðối với người đau, cũng phải luôn luôn niệm câu : “Nam mô Dược Sư Phật”. Hoặc nếu tâm linh còn minh mẫn có thể chuyên tụng bài chú sau đây:
“Nam mô Bạc Già Phạt đế, bệ sắc xã, lũ rô, bệ lưu ly bát lạt bà, hát ra xà dã, đát tha yết đa dã, a ra hát đế tam miểu, tam bột đà da. Ðát điệt tha. Án,bệ sắc thệ, bệ sắc thệ, bệ sắc xã, tam một yết đế sa ha.”
Càng nhiều càng có lợi lạc. Tuy nhiên, dù là tụng thường, dù là tụng hội, nên có ý niệm chân xác là phương pháp tụng kinh cốt ở ý thành, về lễ lạt càng giản dị càng tốt, trong hoàn cảnh nghèo chỉ cần một nén hương thơm, một chén nước trong cũng đủ.
BÌNH LUẬN