Có người hỏi một vị Hòa thượng: “ Tụng kinh có thể đắc đạo không ?” Trả lời: “ Không ”. Lại hỏi: “ Vậy làm thế nào để đắc đạo ?” Trả lời...
Có người hỏi một vị Hòa thượng: “Tụng kinh có thể đắc đạo không?” Trả lời: “Không”.
Lại hỏi: “Vậy làm thế nào để đắc đạo?” Trả lời: “Tụng kinh”.
Nghe như một “công án Thiền”. Hai câu trả lời có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng sự thực thì ý nghĩa của hai chữ “tụng kinh”, trong cả hai trường hợp đều cũng đúng như thế. Phật tử nếu tụng kinh để cầu mong “đắc đạo” thì không thể nào thành được, nhưng nếu muốn đạt được hai chữ đắc đạo trong một giới hạn nào đó thì phải chuyên tu. Chuyên tu thì phải có tụng kinh. Tụng kinh không những để hiểu những điều Phật dạy mà đối với người tu hành còn là một thứ giới luật đưa họ vào một khuôn khổ kỷ luật của sự tu tập. Tuy nhiên, tụng kinh không phải dễ. Nếu không phải là một người đi tu chưa thấu hiểu Phật pháp thì chuyện đọc kinh, phải nói là rất dễ… chán. Thử nghe một đoạn kinh A- di-đà đã được dịch ra tiếng Việt:
… “Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đến Đức Phật A-di-đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn…”.
“Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam có Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật…, hằng hà sa số Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
‘Chúng sanh các người nên tin vào Kinh này là Kinh Tán Thán Công đức Không Thể Nghĩ Bàn Của Đức Phật A-di- đà,’ và là Kinh Đã Được Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm’”.
“Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có Đức Phật… tin vào Kinh này là Kinh Tán Thán Công đức Không Thể Nghĩ Bàn Của Đức Phật A-di-đà’, và là Kinh Đã Được Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm’”.
“Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có Đức Phật… tin vào Kinh này là Kinh Tán Thán Công đức Không Thể Nghĩ Bàn Của Đức Phật A-di-đà’, và là Kinh Đã Được Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm’”.
“Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới có Đức Phật… tin vào Kinh này là Kinh Tán Thán Công đức Không Thể Nghĩ Bàn Của Đức Phật A-di-đà,’ và là Kinh Đã Được Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm.’.”
“Xá Lợi Phất! Thế giới phương Trên có Đức Phật… tin vào Kinh này là Kinh Tán Thán Công đức Không Thể Nghĩ Bàn Của Đức Phật A-di-đà,’ và là Kinh Đã Được Tất Cả Chư Phật Hộ Niệm.’.”
Đọc hết phần kinh A-di-đà này, ta có thể nghĩ rằng nếu tóm lược lời kinh thì chỉ trong khoảng một phần ba là đủ, vì phần nhiều chỉ là những câu lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sự lặp đi lặp lại này là cả một dụng ý. Như một âm thanh cứ mãi vang vọng trong tai, dần dần người tụng thuộc lòng và thấm nhuần lúc nào không hay. Lại nữa, tụng kinh không phải là đọc kinh. Đọc kinh không khác gì đọc sách. Tụng kinh thì phải có âm điệu trầm bổng, lên xuống như âm nhạc, có chuông có mõ phụ họa, càng dễ thâm nhập vào tâm, không những cho người tụng mà cả cho người nghe.
Không phải kinh nào cũng được phiên dịch ra tiếng Việt để những người không hiểu tiếng Hán, tiếng Phạn hay Pali có thể hiểu được ý nghĩa lời kinh. Những bài chú như Chú Đại bi chẳng hạn, phải đọc đi đọc lại rất nhiều lần mới có thể thuộc được. Rất nhiều người đọc Chú đại bi thuộc lòng, nhất là trong những giây phút nguy hiểm, nhưng thực ra họ không hiểu được hết ý nghĩa của lời kinh và chỉ biết cầu sự hộ trì của một Đức Bồ-tát Quán Thế Âm qua hình ảnh một vị Phật Bà mặt đẹp như ngọc mà hầu hết người Việt Nam thường thờ phụng. Có những người tụng Bát-nhã tâm kinh chữ Hán thuộc lòng, nhưng đâu phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa của lời kinh.
Tuy nhiên dù không phải là người tu hành, nhưng trong khi chú tâm tụng kinh liên tục, dần dần chúng ta sẽ tự nhiên loại bỏ được những tạp niệm trong lòng một cách dễ dàng. Không chỉ tụng kinh, mà nghe kinh nhiều, chúng ta cũng sẽ thấy thanh thản, thân tâm an lạc một cách rất tự nhiên.
Riêng kinh đối với người tu hành, như một thức ăn hằng ngày không thể thiếu được. Tụng kinh là một hình thức tu tập nhắc nhở người tu học lúc nào cũng hướng Phật.
Hồi còn trẻ, tôi không có khái niệm về chùa chiền và kinh kệ. Đối với các bậc tu hành, tôi vẫn có thành kiến về hình thức. Có một hôm một vị Hòa thượng đến nhà để an vị Phật cho gia đình tôi. Tôi hỏi: “Bạch Thầy, người ta thường nói Phật tại tâm, cần gì đến một cái bàn thờ trong nhà?” Vị Hòa thượng ôn tồn giải thích: “Thầy lấy một thí dụ, nếu các con chơi đùa trong nhà mà cha mẹ đi vắng, các con sẽ rất tự do, không cần e dè. Nhưng nếu có cha mẹ ở nhà, biết là cha mẹ đang nghỉ ngơi trong phòng, chắc hẳn các con phải cẩn thận, không chơi đùa ồn ào quá trớn sợ làm phiền cha mẹ đang nghỉ ngơi, phải không? Bàn thờ Phật trong nhà cũng vậy. Chỉ là một hình thức để nhắc nhở chúng ta là Phật tử, luôn luôn tự nhủ nên làm những điều Phật dạy, để được thân tâm an lạc. Các con là Phật tử tại gia, nhưng người đi tu thì phải ở chùa mới có hoàn cảnh tu tập được”.
Nhắc nhở để mà nhớ. Nhớ mình là Phật tử. Luôn luôn nhớ mình là Phật tử, chừng đó thôi cũng không phải là dễ.
Đừng nói đến những người mắc phải chứng bệnh nan y Alzheimer rất phổ biến trên thế giới, phần đông chúng ta đều rất dễ quên. Giá như có thể quên bớt những hận thù, quên bớt những quá khứ đáng quên thì hay biết mấy. Đằng này lại quên những cái vặt vãnh không đáng quên. Quên không biết chùm chìa khóa vừa vứt ở một xó xỉnh nào đó trong nhà. Rời khỏi taxi mới biết là đã để quên điện thoại di động trong xe. Đang nói chuyện nửa chừng bỗng dưng quên mất tên người đang đứng trước mặt vừa mới được bạn giới thiệu. Quên rất nhiều thứ, nhất là lúc lớn tuổi. Nghe một câu thơ hay, thấy thích thú và muốn nhớ, nhưng nếu không dụng tâm, không ghi lại thì trong chốc lát chúng ta có thể quên một cách dễ dàng. Vừa đọc được một bài học về sự tha thứ thấy hay thật là hay và tâm nguyện cố gắng thực hiện cho được điều đó, nhưng chỉ một cơn giận kéo đến chúng ta đã quên mất ngay. Đó là cái tâm lý của người đời thường, không phải là những người chuyên tu học và vì trong tâm trí người thường chứa quá nhiều tạp niệm. Tu học là làm thế nào để tất cả những điều Phật dạy ăn sâu trong tâm, trong trí, để lúc nào phản ứng bất cứ chuyện gì cũng với thái độ của một Phật tử thuần thành. Thời đại bây giờ, thiên hạ không cần dùng đến trí nhớ nhiều vì quá nhiều thứ để nhớ, trí óc con người không đủ sức dung nạp. Như những số điện thoại chẳng hạn, muốn nhớ cũng không thể nào nhớ cho hết, nhưng chỉ cần cho vào máy, bấm ra là những con số hiện ra tức khắc. Muốn tìm kiếm một tài liệu, chỉ cần mở máy vi tính là có ngay. Nhưng kinh của người tu hành thì không phải thế. Nó phải nằm trong trí, trong tâm người tu học, như thức ăn, như máu huyết. Thuộc kinh cũng là theo đúng giới luật của người tu hành.
Vậy thì muốn nhớ một điều gì phải NHỚ thì không phải chỉ để để vào trong trí, mà cần phải cất giữ vào trong TÂM mới hiệu quả… Muốn được vậy thì phải cố gắng tu tập. ■
Hoàng Tá Thích (theo VHPG Blog)
BÌNH LUẬN