Là giảng viên triết học và Phật giáo tại đại học Ludwig (Đức) suốt 30 năm nay, sự kiên trì, tinh thần lạc quan, tập luyện vận dụng trí tuệ t...
Là giảng viên triết học và Phật giáo tại đại học Ludwig (Đức) suốt 30 năm nay, sự kiên trì, tinh thần lạc quan, tập luyện vận dụng trí tuệ trong mọi hoàn cảnh đã giúp một thiếu nữ Huế mong manh như chị có thể sống, tồn tại, và hoà nhập vào môi trường học thuật của Đức.
Chị đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt nhất của thời niên thiếu ở Huế, cách sống và cách giáo dưỡng của cha mẹ đã giúp chị điều gì khi bước vào môi trường khoa học xứ người?
Tôi mất cha năm lên bốn tuổi, chính nhờ sự tận tuỵ, tình thương vô bờ, sự hy sinh lớn lao của mẹ tôi, và phải nói, nhờ vào bàn tay ấm áp của đại gia đình, sự giúp đỡ âm thầm mà thâm sâu của bà nội và bà cô, tôi được đi học bình thường như những thanh thiếu niên cùng thế hệ. Chính hai vị lão phu nhân này đã góp phần không nhỏ hun đúc ý chí học hỏi cho tôi. Trong trường hợp của tôi, thân giáo đến từ bà nội, bà cô và mẹ đóng vai trò quan trọng. Lối sống lễ giáo trong gia đình tôn ti trật tự có sẵn đã tạo nên “cái khung” tự nhiên cho cung cách ứng xử, đôi khi chật hẹp nhưng cần thiết cho cuộc sống chung. Vào thời ấy, đôi khi tôi muốn “tháo cũi sổ lồng” – và cơ hội đến khi tôi được học bổng du học. Những tưởng tôi sẽ ngang tàng phá vỡ mọi khuôn phép, nhưng bỗng nhiên ở xứ người tôi lại “thủ cựu”, và chính qua đó, sự tự trọng dè dặt, đã giúp tôi ngẩng cao đầu. Trong khi mẹ tôi tận tuỵ lo cho tôi ăn học, bà nội tôi là người giáo dục tinh thần. Bà không cầm roi như lối giáo dục nam quyền, bà chỉ kể chuyện – đó là một trong những lý do tại sao tôi dùng phương pháp kể chuyện với con tôi sau này. Là nữ giáo thụ cho các cung nữ, bà nội tôi có lối kể chuyện uyên bác và thu hút. Bà kể cho tôi chuyện cha tôi, bác tôi, ông nội tôi, các nhân vật lịch sử, văn chương, các tuồng tích, họ đã đi học như thế nào, bác tôi đã tiến thân từ anh học trò nghèo mồ côi cha cho đến khi thi đỗ làm quan, nhiều thật nhiều chuyện những con người trong nghèo khó khắc phục hoàn cảnh bằng ý chí, tâm huyết và tài năng để tiến thân. Giấc mơ học thành tài của tôi đến từ câu chuyện ấy, ý chí phấn đấu trong hoàn cảnh khó khăn đã giúp tôi mạnh mẽ không lùi bước. Trong lúc ấy, bà cô tôi, một mệnh phụ cao quý lại cho tôi hình ảnh của người phụ nữ tự tin, thành đạt, thương người, hiếu thảo, thuần đạo. Còn mẹ tôi, là đức hy sinh xả thân của bà. Tôi nghĩ rằng “thân giáo” đóng vai trò quan trọng trong giáo dục. Nếu người lớn không có kỷ cương, vô đạo thì người trẻ sẽ theo gương ấy mà vô kỷ cương, vô hạnh. Chính nhờ thân giáo ấy, mà khi tôi “đi đứng” ở nước người, nhận được sự tôn trọng.
Thử thách nào là lớn nhất với chị để có thể kiên định với con đường nghiên cứu triết học suốt bao năm qua, trong một thế giới sống gấp và thực dụng? Chị nghĩ gì về sự đứt gãy của thế hệ tiếp nối trong lĩnh vực nghiên cứu và dịch thuật triết học?
Trước tiên tôi đã chọn triết học vì “yêu” chứ không nghĩ đến mục đích thực dụng. Với điểm học tốt, tôi đã có thể chọn những môn khác như y khoa, vật lý học… Khi yêu thì một liều ba bảy cũng liều cho nên thử thách nào, vật chất hay chướng ngại tinh thần, cũng đều “giải giáp” trước tình yêu ấy. Yêu triết học cũng có nghĩa là yêu gấp đôi đó (cười): yêu cái tình yêu chân lý, lẽ sống của con người. Nó chính là phương thức cho tôi sức mạnh vượt qua những khó khăn trong đời người. Tôi nghĩ rằng phương pháp triết học giúp chúng ta đạt được cái nhìn thấu đáo về kỹ năng “người”, điều kiện hiện sinh, trách nhiệm đạo đức, để vượt lao lý và đạt quân bình nội tâm, làm cho cuộc sống giữa ta và người có ý nghĩa. Triết học giúp thao luyện trí tuệ – tâm trí cũng giống như thao luyện thân xác. Triết học đem lại sự tự tin và lòng tin vào sức mạnh trí tuệ, phẩm giá con người.
Khủng hoảng lớn nhất là chúng ta đánh mất niềm tin vào sự trung tín, như là cơ sở của tương quan giữa người và người trong giao tiếp, người này bỗng thành kẻ cắp của người kia và ngược lại.
Theo tôi, sự bỏ qua triết học trong chương trình giáo dục hiện nay là một sai sót lớn. Tây phương đã có một thời xao lãng, nhưng chương trình trung học vẫn không thể bỏ qua các môn thuộc lĩnh vực triết học. Hiện nay, vai trò của triết học trong việc giáo hoá, đào tạo được đánh giá quan trọng. Trong mê cung của chủ nghĩa thực dụng vật chất, cần có một kim chỉ nam hướng dẫn con người có tư duy đúng đắn, tự chủ và độc lập. Trước sau, tôi vẫn nghĩ đưa triết học vào chương trình giáo dục tại Việt Nam, nếu Việt Nam muốn tiên tiến trong công cuộc giáo dục, đào tạo con người toàn diện.
Ngoài dịch sách, chị còn là tác giả của nhiều tiểu luận về triết học, tôn giáo và nhiều bài ký sự, tuỳ bút… Nhìn lại quá trình nghiên cứu của mình, chị nghiệm ra điều gì quý giá nhất?
Có thể nói, sáng tạo là điều quý giá nhất, trong nghĩa sáng tạo là khả năng tổng hợp sinh động cái cũ, vốn liếng tri thức nhân loại đã có để sản sinh cái mới, có như thế sáng tạo mới có ý nghĩa nhân bản. Tôi thích câu trả lời của Trần Nhân Tông: “Mỗi lần nêu ra một lần mới”, cũng trong ý nghĩa ấy, tôi thấy mình cần… mới hơn nữa.
Là người đeo đuổi nhiều năm để giành và giữ lại phần đất tổ tiên ở chính quê hương mình, chị có đau đớn nhiều không khi nghĩ đến những người dân thấp cổ bé họng trước làn sóng đô thị hoá đang đẩy họ vào cảnh bần cùng, không chốn nương thân?
Mỗi một phút giây tôi khiếu nại để giành lại và giữ được mảnh đất của tổ tiên là mỗi phút mỗi giây thấm nghiệm sâu xa nhất sự đau khổ của người dân thấp cổ bé họng đã bị tước đoạt đất sống. Phải nói là tôi đau, thật đau, trên từng thớ thịt với họ. Từ năm 1963, ý thức về quê hương đất nước đã cho tôi động cơ dấn thân – ngay cả ước mơ trên chuyến du học của tôi cũng nằm trong thao thức hoài bão của thế hệ thanh niên chúng tôi thời ấy ở miền Nam – ước mơ đó là học thành tài để xây dựng quê hương, để xoá tan mặc cảm “nô lệ da vàng”, thân phận nhược tiểu như Trịnh Công Sơn từng hát. Chúng tôi hẹn nhau như thế. Đối với tôi, căn nhà tổ tiên cũng chính là quê hương. Không giữ được nhà sao giữ được nước? Tôi tin rằng chân lý sẽ thắng, công bình sẽ thắng, dù hoàn cảnh, cơ chế xã hội đầy rẫy bất hạnh, bất công.
Là người dịch khá nhiều tác phẩm triết học và dịch thơ, quan điểm của chị về dịch triết, dịch thơ? Vì sao chị lại chọn Hölderlin?
Từ hơn 40 năm nay, tôi vẫn không thay đổi quan điểm dịch của tôi là dịch đúng và chính xác. Tôi cố gắng bỏ cái tôi định kiến trong khi dịch hầu mong chuyển tải tâm tư của nguyên bản. Tôi ý thức rõ trách nhiệm này. Tôi thích thơ Hölderlin, bởi vì trong thơ ông tính chất tư duy triết học, thao thức của ông và thời đại ông đã biến thành thơ, đã hoá thần. Một so sánh nhỏ tuy không cân đối: tỷ như Trịnh Công Sơn của chúng ta hát triết lý của thập niên 1960 không chút gượng ép, anh trở thành ve sầu của thế hệ chúng tôi.
Viết khá nhiều cho tạp chí Văn hoá Phật giáo, đó có phải là cách để chị đưa triết học, nhất là triết học Phật giáo đến với thập loại chúng sinh? Viết cho người đọc bình dân, chị có gặp khó khăn nhiều không?
Tôi mong muốn lý giải đạo Phật trong một tinh thần so sánh mới, chứ không sáo mòn theo cách giảng giáo lý truyền thống. Nếu nói bình dân hoá, thì những khảo luận của tôi chưa đạt và cũng không mong muốn đạt tiêu chuẩn ấy, tôi mong văn hoá đọc của người Việt hôm nay tìm cái khó hơn là cái dễ.
Làm thế nào để chị có thể bắt kịp hơi thở nóng hổi của cuộc sống hôm nay, nhất là những chuyện thời sự của quê nhà, để lý giải nó với một ngôn ngữ bình dị?
Hơi nóng của một lò… sát sinh có nóng hơn không? Lắm lúc cảm giác bị thiêu cháy rất cụ thể, nhưng bất chợt trăng trên lá dừa, hoa cau thơm im lặng trong nắng mai, có hiệu lực làm lành, đưa tôi có thể trở về. Heidegger gọi sự xuống dốc của Âu châu trong thời hậu hiện đại là “sự lãng quên thể tính” (Seinsvergessenheit). Quê nhà đang trên đà bị Tây phương hoá một cách thực dụng, bắt chước rập khuôn ngay cả phế thải văn minh Tây phương. Tôi gọi là sự đánh mất bản thể, lãng quên nguồn gốc hai lần, nhất là trên phương diện đạo đức. Vì thế càng phải gấp hơn sự chấn chỉnh giáo dục toàn diện.
Chị nghĩ sao khi sự trong sáng của tiếng Việt đang bị cuộc sống thực dụng và văn chương thực dụng làm hoen ố, trong đó có sự tiếp tay không nhỏ của những nhà… dịch ẩu?
Theo tôi, sự trong sáng của tiếng Việt đang bị đe doạ không phải do chuyện dịch sách ẩu, đó chỉ là chuyện nhỏ. Thảm hoạ lớn hơn và hiện diện khắp nơi ngay trên đầu lưỡi của mỗi người, là dùng ngôn ngữ để nguỵ trang, nói dối công khai. Cả người nói và người nghe đều biết là dối, nhưng vẫn lặp lại, cho đến khi sự dối thành thật và cái trung tín của ngôn ngữ biến mất. Khủng hoảng lớn nhất là chúng ta đánh mất niềm tin vào sự trung tín, như là cơ sở của tương quan giữa người và người trong giao tiếp, người này bỗng thành kẻ cắp của người kia và ngược lại. Hình như trong mỗi giao tiếp chẳng ai tin ai được, làm sao cha mẹ dạy bảo được con, trò vâng lời thầy? Mọi việc trở thành những thứ bán chác. Di hại này quá lớn cho thế hệ trẻ.
Khi đồng tiền ngự trị thì giá trị tinh thần của con người, tính cao quý của con người chỉ là những con số. Thức giấc nửa khuya, tôi có nỗi sợ hãi của một người đang nghe cơn địa chấn lung lay đất sống.
Đọc những bài chị viết về tết, về Huế, về ngày Phật đản xa xưa… thấy xúc động lạ thường. Dường như nỗi nhớ đã giúp chị chiêm nghiệm ra nhiều điều quý giá?
Đúng là cái vốn xã hội trong quá khứ đã gắn kết tôi với quê hương, những điều thật đẹp mà tôi đã trải qua và tôi muốn chia sẻ những điều đẹp ấy cho những người quanh tôi hôm nay. Cuộc sống ấy đơn giản, khiêm nhường nhưng đã có những giá trị thật cao, hơn gấp trăm ngàn lần đời sống xa hoa, phù phiếm đầy giả tạo. Những giá trị ấy nuôi dưỡng tâm hồn con người. Tôi đã mang theo những giá trị ấy trên đường đi đến xứ người, và một phần của nó đã giúp tôi sánh vai được với bạn bè năm châu. Trong nhiều cuộc nói chuyện với con về những khủng hoảng, những thất bại mà chính tôi gặp phải, tôi thường bảo con, không thể quay lưng với con người. Giá trị đời sống nằm ngay ở chỗ vẫn tin vào tính thiện của con người, vì “giết người đi thì ta ở với ai?”
Những bài viết của chị luôn kèm theo những bức ảnh rất thơ mà chính chị là tác giả, thú vui nào đã giúp chị giữ được sự xanh tươi trong cách nghĩ, cách sống?
Thẩm mỹ, yêu cái đẹp, nghệ thuật là điều không thể thiếu trong cuộc sống. Nietzsche cho rằng chỉ có hiện sinh thẩm mỹ là thứ tồn tại được truy nhận. Ông còn đi xa hơn khi cho rằng giáo dục con người trước hết nên là giáo dục thẩm mỹ, chính cái đẹp làm nên cuộc sống có ý nghĩa, chứ không phải khoa học. Tôi ủng hộ phần nào quan điểm của ông, nếu không có nghệ thuật, hiện sinh trở nên khập khiễng, nghệ thuật có thể làm hoà mâu thuẫn giữa chủ thể và đối tượng, sáng tạo hoà điệu đã bị phá vỡ giữa con người và thế giới chung quanh. Cho nên thơ như ngôn ngữ hoà nhập và cái nhìn qua nhiếp ảnh đều tạo tác chung, cái này không bù trừ cho cái kia mà làm nổi bật lẫn nhau. Thiền sư đạt đạo là một nghệ sĩ đầy cảm xúc về cuộc sống, cho nên đến với đạo Phật bằng tâm hồn nghệ sĩ cũng nằm trong ý hướng mà Nietzsche đã nhận định.
Nấu một món ăn thật ngon cho bạn bè, ôm được con sau nhiều ngày xa cách, mặc một chiếc áo đẹp với gout tinh tế, ăn được một trái giáng châu từ vườn Huế, ngắm được một đoá hoa hải đường mới nở trong vườn hay thảo luận với người thức giả, đều là những thú vui, và đôi khi chọn cô đơn, “tôi chọn ngồi thật yên” như lời nhạc Trịnh Công Sơn.
Chị có sợ không khi mỗi ngày đọc báo, lại thấy cuộc sống đầy những tiêu cực, khủng hoảng, nhất là khủng hoảng tinh thần đang lan tràn như một bệnh dịch?
Giá trị đạo đức đang bị huỷ hoại đến phải rên xiết. Dạo sau này khi trở về Việt Nam tôi ngủ không yên, tâm trạng bất an đến từ những khủng hoảng chung quanh hàng ngày đọc, nghe, thấy, va chạm. Tình trạng phân hoá xã hội gắt gao một cách phi lý, o bán cháo ngồi trước nhà chỉ mong mỗi ngày lời được mấy chục ngàn đồng để nuôi cả gia đình, o bán bánh ngày nào cũng rao trước cửa hy vọng chủ nhà mua vài ngàn bánh, lại nghe thấy đọc thấy các đại gia giàu hàng ngàn tỉ, đi xe khủng, đám cưới khủng. Bất an trên đường phố, bất an khi thấy mỗi người đều vay nợ để sống... và đồng tiền làm bá chủ trong cuộc sống vay mượn này. Khi đồng tiền ngự trị thì giá trị tinh thần của con người, tính cao quý của con người chỉ là những con số. Thức giấc nửa khuya, tôi có nỗi sợ hãi của một người đang nghe cơn địa chấn lung lay đất sống.
Cách để chị tìm thấy sự tĩnh lặng và suy tư giữa bộn bề bất trắc?
Nếu không tập luyện được duy trì hơi thở ngay trong hỗn loạn thì có lẽ tôi sẽ bị suy sụp tinh thần. Trong lúc quán hơi thở, tôi tự nhủ mình không bỏ cuộc, và muốn cùng với những người đồng cảm bắt đầu một cuộc hành trình văn hoá khác, khiêm tốn nhưng đầy tình người.
Làm thế nào để sống một cách bình thường như câu chúc mà chị thường dành cho bạn bè mỗi lúc chia tay?
Trước sau thì vẫn: “Chữ tình là chữ khởi đầu…”
thực hiện: Kim Yến - chân dung hội hoạ: Hoàng Tường
Theo SGTT
BÌNH LUẬN