Sáng ngày thứ hai, tôi thức dậy sớm, làm vài động tác thể dục đơn giản, có một động tác Yoga tôi học lóm trên tivi. Làm không giống lắm, ngư...
Sáng ngày thứ hai, tôi thức dậy sớm, làm vài động tác thể dục đơn giản, có một động tác Yoga tôi học lóm trên tivi. Làm không giống lắm, người khác nhìn chắc buồn cười! Mọi người vẫn chưa thức dậy, không gian tràn ngập một niềm im lặng. Thoang thoảng trong không trung cái gì dìu dịu, nhẹ nhàng, thanh thoát. Hương gì thế nhỉ? Thơm tho, khi mờ khi tỏ phảng phất lướt qua như hương tóc cô gái bước đi lòa xòa trong gió. Nguyệt quế - nhà chị Hường hay trông mấy thứ hoa linh tinh trước hiên nhà trong đó một bụi nguyệt quế. Cái loài hoa chi lạ rứa? Chỉ tỏa ngát khi đêm về, sáng ra khi ông mặt trời chưa thức giấc nó đã vội giấu hương thơm đằm thắm lẩn vào những cánh hoa trắng muốt xinh xinh. Tôi nhẹ mỉm cười bước chầm chậm ra sân nhớ đến một bài thơ của Lam Hồng…
Biết ngày bận chẳng về thăm
Nên em dâng chút hương thầm về đêm
Ngày còn khi nhớ khi quên
Đêm, hương thầm mới là riêng của mình.
Thinh không bảng lảng, mơ màng, chẳng phải sương mù cũng không mưa thành hạt, nhưng ẩm ướt, cảm giác như không gian giăng đầy một màn nước li ti mát lạnh. Cả đêm không nghe mưa, sáng ra giàn mướp trước sân sóng sánh hoa vàng, hơi sương đêm lăng quăng đọng thành từng giọt trên những cánh hoa, viền quanh mép lá, long lanh như giọt nước mắt của đêm chờ đợi tia sáng mặt trời để hóa thân trong một phút giây huy hoàng. Bất chợt một đàn chim sẻ nhỏ vụt qua cất tiếng chút chít buồn bã bay xa không để dấu vết gì trên nền trời trắng xám.
Chạy quanh sân vài vòng, tiếng là tập thể dục mà thật ra là để ngắm nghía vạn vật. Không hiểu sao khung cảnh trong sáng như tấm bình phong kia mở ra trong lòng tôi một nỗi buồn vô cớ bất chợt mà như đã tồn tại lâu lắm rồi, mơ hồ lại rất rõ ràng y hệt giọt sương đọng trên cánh hoa mướp vàng thoáng chốc mất hút vào hư không.
Tôi có thói quen uống cà phê và trà buổi sáng. Sáng nào không làm một tách cà phê một chén nước trà thấy thiêu thiếu chút gì đấy. Chút gì đấy không đến nỗi rung tay rung chân nhưng vẫn tí ti khó chịu trong mình. Tôi nấu nước định sẽ pha cho mọi người một ấm trà thật đậm đặc, song khi nước lăn tăn sôi Tiến rủ đi uống cà phê ở chợ Ea phê. Tôi châm nước vào ấm rồi bỏ mặc đấy lao vút ra chợ bằng xe máy làm ầm ĩ phố núi lặng im. Chúng tôi ngồi nhâm nhi tách cà phê cao nguyên nghe ba chị Hường nói chuyện. Dáng người ông cao lớn, tóc đã pha sương nhưng vẫn còn tráng kiện. Nhìn vẻ ngoài mạnh mẽ ấy người ta có thể mường tượng về một thời trai trẻ ngang dọc của ông. Bằng chất giọng sang sảng ông kể về những tay săn voi, về những tảng thịt voi nặng hàng chục kí được người Ê đê gùi ra chợ bán cách đây vài chục năm. Kỳ lạ hơn là cách chữa bệnh không theo một nguyên tắc y khoa hiện đại nào của thầy lang người dân tộc… những câu chuyện những truyền thuyết ấy làm cho vùng đất này thêm bí hiểm. Cà phê Buôn Ma Thuộc không ngoa, đậm đặc đến ngầy ngật, tôi uống được nửa tách đành bỏ dở phần còn lại. Ngồi trong quán dưới tàn bông giấy ngắm trời mây, non nước và nghe say mê những câu chuyện huyền hoặc.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi ngồi uống trà trên bộ salon vừa nghe tin tức buổi sáng. Khi uống trà, nhất là khi tách trà còn nóng hôi hổi, tôi có thói quen ôm chặt lấy thành tách để hơi ấm thấm vào lòng bàn tay, len vào từng kẽ tay. Đôi tay ấy áp lên má thì ấm áp biết dường nào. Một thói quen khác, gần như cố hữu, không bỏ được, tôi hay dùng cả lòng bàn tay để bịt kín tách trà, thưởng thức cái hương trà thơm nồng nàn trong lòng bàn tay chính mình. Tính ra tôi không phải là người sành về trà, cách uống trà của tôi cũng không điệu đàng như trà Nhật trà Tàu. Người Trung Hoa được biết đến như là người đầu tiên biết uống trà, người Nhật Bản có văn hóa trà đạo. Đạo là con đường, trong tiếng Hán chữ đạo gồm bộ xước (đi) và thủ (đầu) tức là đi tìm đến cái căn nguyên đầu tiên, uống trà là cái cớ để đi tìm cái căn nguyên đầu tiên, căn nguyên xuất phát từ tâm, bởi vậy trà đạo là thiền là trở về với con người thực tại. Bởi thế người Nhật cố tình tạo ra khung cảnh trà thất vách bằng thứ gỗ mộc, một bếp lửa nhỏ, một ấm nước, một bức tranh thủy mặc. Ngồi trong không khí đó, nghe tiếng nước lăn tăn sôi, dõi theo hơi thở, giữ tâm mình trong từng động tác nghi lễ. Ấy là trà đạo. Ấy là nương vào trà mà giữ đạo. Người Việt mình dạo gần cũng học đòi cách pha trà thanh tao người Nhật, buồn một nỗi là bắt chước mà không tới cốt tủy, được hình thức mà mất nội dung, đôi khi cầu kỳ dị hợm. Học hỏi giao lưu văn hóa tất nhiên tốt nhưng mình là người Việt phải giữ cái hồn dân Việt, uống trà theo kiểu người Việt.
Xưa nay trà là đạo.
Khát cứ việc uống thôi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Đầu thượng trước đầu rồi!
Kiểu người Việt đấy à vô môn, không lề lối quy cách gì cả, chỉ pha sao cốt tự mình uống tự mình thấy ngon. Thế là đủ… uống trà để giải khát, nghe hơi tầm thường đơn giản thật ra đó là cái nhìn phương tiện, tự do và sâu sắc.
Hết chuyện trà dư tửu lậu, chúng tôi đánh xe bon bon trên cung đường quen thuộc về Buôn Ma Thuột rẽ ngang đường Phan Bội Châu theo hướng Tây rồi đi thẳng về Buôn Đôn nằm bên bờ sông Sereppok. Trái với dự đoán, đường đi Buôn Đôn vắng tanh. Thỉnh thoảng xa xa, lấp ló trong rẫy ngô một ngôi nhà gỗ đóng bằng loại ván bạc thếch xẻ cẩu thả từ thân cây rừng vẫn còn nổi lên những mắt cây sẫm màu. Đúng là chỉ ở rừng người ta mới có kiểu làm nhà hoang phí bằng thứ ván xẻ loại này. Ở quê tôi, miền Tây, người ta làm nhà bằng lá dừa. Lá dừa khi còn tươi được đầm cho bằng phẳng rồi phơi khô, kết lại thành từng tép đùng để làm vách hoặc lợp mái.
Lâu lắc lại thấy đàn bò thong thả gặm cỏ bình yên hưởng nắng gió và mây trời. Vùng này người dân không trồng cà phê, khắp nơi màu lá cây khoai mì, lá ngô loang lổ miền đất đỏ, điểm tô màu vàng hanh hao của rẫy ngô hoang tàn sau mùa thu hoạch. Đi giữa khung cảnh nghèo khó cũ kỹ như vầy người ta không thể nào vui được, tôi hỏi chị Hường về nỗi băn khoăn dã quỳ của mình, tôi nặng nợ với vùng đất cao nguyên phần cũng bởi muốn thưởng thức màu hoa dã quỳ rực rỡ vàng. Chị bảo mùa này không có dã quỳ, không có dã quỳ vì dã quỳ là hoa báo đông, chiếc hàn thử biểu tự nhiên của đất trời. Cứ hễ hoa quỳ nở vàng khắp nơi trên đồi dưới lũng và nắng chuyển sang màu trong suốt vàng như mật là con người được mách bảo rằng, mùa thu đi qua rồi đấy, cái lạnh tê tái sắp sửa tràn về. Có kẻ quay quắt nhớ quê đã viết rằng, sống ở cao nguyên thì dù ở tuổi nào cũng không thể tránh khỏi nỗi rạo rực dã quỳ. Sương, nắng và cái mùi hăng hắc cúc quỳ dường như là chất keo tổng hợp níu kéo tâm hồn người xa xứ. Không có những rặng dã quỳ ken dày trên con đường đồi núi quanh co đại ngàn thiếu đi nét đẹp lung linh kỳ mỹ một sắc hoa rỡ ràng hoang dại. Biết rằng đó là tạo hóa tự nhiên bình thản sao lòng người du ngoạn cảm thấy đánh mất một thứ gì đấy quý giá vô cùng tiếc nối… tiếc nuối cho dã quỳ… tiếc nuối một bóng hình..hay tiếc nuối cho chính mình?
…
Đi về bên đồi vắng
Nghe dã qùy thở than
Tìm đâu trong chiều nắng
Dáng đông xưa mơ màngVẫn một màu hoa ấy
Còn trên đời, em – tôi
Mà xa nhau đến vậy
Xa mãi tận chân trời?…
Thiên nhiên không trải màu dã quỳ vàng cháy triền đồi đền đáp bằng cách ban phát khắp nơi rung rinh thứ hoa cúc dại trắng tinh bé xíu, cành lá khẳng khiu vươn đầy bụi đỏ. Cúc Xuyến Chi, tôi vẫn thường gọi thế, tên một người con gái xinh đẹp bất hạnh tật nguyền biết yêu bằng cả tấm lòng trong sáng. Tình yêu con người đôi khi thật lạ, nó âm thầm tuyệt đối hơn cả dãy Chư Yan Sin hùng vỹ. Mỗi loài hoa có ý nghĩa riêng của nó, đó là thứ tình cảm thiêng liêng như mạch nước ngầm chảy dưới đất sâu. Nếu hoa cúc quỳ là biểu tượng của sự lạc quan, rạo rực sống thì hoa cúc dại là hình ảnh ngây thơ trong trắng. Những bụi hoa cúc, những cánh hoa trắng muốt rập rờn trong gió gieo vào lòng người nỗi sợ hãi mỏng manh dễ vỡ như khi người ta lỡ tay đánh rơi một chuỗi hạt lấp lánh pha lê…
Gần đến Buôn Đôn chúng tôi rẽ ngang đến địa điểm nằm sát bên bờ sông Sereppok. Khu vực này là sân sau tòa nhà ban quản lý rừng quốc gia Yokdon. Đứng bên bờ sông bên này mát lạnh người ngó sang bờ bên kia thấy điệp trùng một màu xanh ngắt. Tôi biết là chúng tôi rất gần biên giới, cảm giác đứng ở nơi tận cùng tổ quốc lúc nào cũng đặc biệt. Chúng tôi len lỏi dưới tán cây, leo trèo thoắt ẩn thoắt hiện trong đám rễ si lùng nhùng rũ rượi. Người ta cho xây mấy chiếc cầu cáp treo lát gỗ là đà trên mặt nước, vài căn chòi bằng ván xẻ trên những chạc ba chạc tư kín đáo. Nhưng dù sao cũng không giấu được vẻ điêu tàn không bàn tay người chăm sóc nên mục nát lạnh lẽo.
Dòng sông nơi đây không giống như con sông Tiền quê tôi. Con sông Tiền nước chảy hiền hòa rộng lớn ở đoạn hai bờ sông gần nhau nhất cũng phải hơn tám trăm mét, còn chỗ xây cầu Mỹ Thuận thì hai bờ cách nhau tròm trèm một cây số. Chính cái mạnh mẽ rực lửa của vùng đất cao nguyên đã tạo nên tính cách rất riêng của địa hình địa vật nơi đây. Dòng Sereppok không thể nào bì được con sông Tiền về cái khoáng đạt rộng rãi nhưng bù lại nước chảy cuồn cuộn, réo rắt suốt đêm ngày về xuôi chẳng khi nào ngừng nghỉ. Sereppok không phải là dòng sông lớn nhất Tây Nguyên nhưng tính nết trái khoáy của nó thì không dòng sông nào có được. Khởi nguồn từ rừng quốc gia Chư Yan Sin cách thành phố Buôn Ma Thuộc khoảng 60 cây số về phía Đông thuộc địa phận hai huyện Lak và Krong Bong. Phía bắc rừng Chư Yan Sin là suối Ea K’Tour chảy theo hướng bắc nam nhập vào Krong Nô (sông đực), Krong Nô - đến lược nó - hợp lưu sông Krong Na (sông cái) rồi tất cả đổ ra Sereppok. Dòng sông đỏng đảnh uốn mình ngoằn ngoèo trên cao nguyên Đắk Lắk tạo ra nhiều thác nước đẹp mê hồn như thác Dray Sap, Dray Nur, Gia Long, Trinh Nữ… trước khi đi vào địa phận vườn quốc gia Yokdon, mải miết chảy về tây qua bên kia biên giới Campuchia. Sereppok là một trong hai con sông ở Việt Nam không đổ ra biển Đông. Con sông thứ hai là sông Đà nổi tiếng của vùng Tây Bắc đất nước chẳng xuôi về biển lớn mà ngược lên hướng Bắc qua biên giới Việt Trung từng được nhà văn Nguyễn Tuân nhắc đến trong tập bút ký Sông Đà.
Đến Buôn Đôn chúng tôi gởi xe rồi đi vào khu du lịch cầu treo bắt ngang dòng Sereppok. Dòng Sereppok ở đoạn này nước chảy không thật dữ dội, dòng nước lại hẹp, giữa dòng lại có một đảo nhỏ Eano. Bên này bờ sông có mấy cây si cổ thụ, cành lá lùm xùm vươn dài, đan chéo vào nhau bền chặt thân tình tưởng như không thể nào ngã được. Lợi dụng những nhánh si làm giá đỡ người ta dựng vài chiếc cầu treo bằng cáp sắt lát gỗ luồn lạch dưới tán si, liên thông và lơ lửng giữa không trung. Mới lần đầu dò dẫm lên cầu treo cảm giác là lạ. Đầu tiên là nỗi sợ hãi trước cái lắc lư chao đảo rất riêng, khi đã quen thân và bước chân đã dạn dĩ hơn mọi người lại thích thú vừa rung lắc vừa chạy thật nhanh trên cầu như những đứa trẻ con tinh nghịch. Giữa xanh um cành lá còn có những sàn gỗ phục vụ du khách nghỉ chân, ăn uống. Trưa, chúng tôi gọi một con gà, dĩa thịt heo rừng ít cơm Lam và trải chiếu ăn ngay tại chỗ. Trái với sự tưởng tượng của tôi, hơi thất vọng một chú vì người ta đã thương mại hóa món cơm Lam, làm mất đi cái chất dân dã núi rừng của món ăn đặc biệt này. Song đối với tôi đó chỉ là một chấm nhỏ trên tờ giấy, chúng tôi đã ngồi bên nhau nhấm nháp ché rượu cần, lắng nghe tiếng nước réo rắt dưới chân cảm nhận từng cơn gió từng tiếng xao động quanh mình…
Người dân bản làng nơi đây thật biết cách làm ăn. Anh chàng giữ xe cho chúng tôi, khoát bộ cánh bằng thổ cẩm đen hơn cột nhà cháy nói tiếng Kinh như gió và sẵn sàng: “Hello, can I help u?” với khách Tây balô. Mấy cô gái dân tộc đứng ở quầy hàng lưu niệm cười tươi như hoa bán hàng trông ra dáng bà chủ lắm. Ở đây còn có dịch vụ cưỡi voi với giá cả khá đắt đỏ, hai trăm nghìn cho một tiếng đi lòng vòng buôn Đôn (nghe đồn là còn cưới voi vượt dòng Sereppok), nếu du khách nào muốn đứng chụp hình chung với voi phải chi năm mươi nghìn để có mười lăm phút “riêng tư”. So với nhiều địa phương khác, Đắk Lắk có nhiều cảnh quan thay đổi tuyệt đẹp, đặc biệt là văn hóa dân tộc được hình thành từ hàng trăm năm qua mang bản sắc văn hóa độc đáo đặc sắc. Tuy nhiên phát triển du lịch như thế nào để vừa bảo vệ môi trường thiên nhiên hoang dã, vừa giữ được nét văn hóa truyền thống không phải là điều dễ dàng. Và tôi luôn mong mỏi rằng vùng đất này sẽ mãi giữ được cái trầm hùng vững chãi trước sự biến đổi của thời gian.
Chiều lắng lại, nhìn vượt qua những khoảng ruộng lúa chín vàng suộm, phía đằng xa tít tắm, ngọn núi im lìm trầm mặc chuyển dần từ màu lam sang màu tím sẫm rồi thẫm lại một cách huyền bí. Xa xa, trải dài trên sóng lúa và đỉnh núi đọng lại những bóng nắng chênh vênh, đỏ thẫm như những vệt son yêu kiều. Hoàng hôn lặng lẽ ùa về.
Gia đình chị Hường là một gia đình lớn hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Cả nhà chị có mười anh chị em, chưa tính thêm dâu rể. Anh em hòa thuận và thương yêu nhau, và hình như đều có cơ ngơi ổn định, khá giả. Không ai nói ra nhưng ai cũng cảm nhận được cái không khí gia đình đầm ấm và thân thương đó. Chiều tối hôm ấy, nhà chị Hường mở tiệc khoản đãi mừng chị Hường vừa đậu cao học ngành xã hội. Trong buổi tiệc tôi quen biết được thêm anh Thảo và chị Tâm, hai người bạn thân nhất của chị Hường khi còn đi học. Anh Thảo là dân kinh tế, sau khi ra trường anh ở lại Sài Gòn làm sale xuôi ngược mấy năm trời… cuối cùng rồi anh cũng trở lại Eea Phe để làm cho một công ty hóa dược nào đấy. Tôi hỏi anh vì sao anh lại quay trở về nơi này. Anh bảo: “Ừ ở đấy có cơ hội thật, nhưng anh chán Sài Gòn lắm rồi, chán những buổi nhậu nhẹt cùng đối tác nửa đêm về sáng?”. “Còn gia đình?”. Anh cười vừa khinh bạc vừa xa vắng:“Cũng phải tính chứ nhưng mà…”. Sài Gòn với anh dầu gì cũng là đất khách, mà đất khách thì bạc lắm… hơn vôi nữa. Chỉ có nơi đây lúc nào cũng mở rộng vòng tay đón anh quay về. Anh không thể xa mảnh đất mình được sinh ra và lớn lên, hay có người con gái nào đấy mà anh không nỡ quên chăng? Anh không nói song tôi biết ba chấm lơ lửng ấy chứa đựng rất rất nhiều tâm trạng và trăn trở. Giống như giữa bầu trời và mặt đất lúc nào chẳng có khoảng cách, làm gì có đường chân trời. Con người tưởng rằng có thể bước lên trời bằng cách đi đến tận cùng mặt đất. Nhưng càng đi càng thấy bầu trời cao mãi lên, mặt đất rộng mãi ra và con người ngày càng cô đơn khi nhìn thấy vết chân chính mình.
Còn chị Tâm, tốt nghiệp Sư Phạm Quy Nhơn ngữ văn Anh 7 năm trong nghề và nhận ra cái nghề “gõ đầu trẻ” quá nhiều tiêu cực. Chuyện này tôi biết bởi đơn giản ba tôi cũng là nhà giáo… nhà giáo phó thường dân kêu không ai nghe, gõ cửa không ai mở mà ức quá hét lên thì cũng giống như mình tự chửi mình vậy thôi! Khi gặp tôi cũng là lúc chị đang rất lưỡng lự nửa muốn về Sài Gòn thử sức mình ở một công việc khác. Tôi nói chuyện với chị đôi ba câu… Chị bảo công việc ở đây ổn định đến nhàm chán, nhiều chuyện chướng tai gai mắt chẳng thể nào nói ra được, tóm lại mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Chị cũng biết ở Sài Gòn bấp bênh lắm… biết rồi mọi việc có suôn sẻ hay không? Người Sài Gòn như tôi có lẽ sẽ chẳng bao giờ cảm nhận được hết nỗi băn khoăn trong lòng chị.
Hồi đó người chị họ lớn hơn tôi vài tuổi thời mới năm nhất học giỏi nhất trường nói như đinh đóng cột với nhà báo rằng: “Ra trường em sẽ về quê em công tác để xây dựng tỉnh nhà”. Năm chị họ tôi ra trường nhứt quyết bám trụ lại Sài Gòn dù cầm tấm bằng cử nhân loại xuất sắc cũng phải chạy vạy làm gia sư đầu này đầu kia phán một câu xanh rờn chẳng kém: “Về đấy àh! Đồng lương ba cọc ba đồng làm cái gì, cạp đất sống phải không!”…. Chẳng ai trách được, cuộc sống mà! Người Sài Gòn có câu: “Sài Gòn hoa lệ, hoa dành cho người giàu, lệ dành cho kẻ nghèo” để nói lên sự khắc nghiệt trong mưu sinh kiếm sống ở thành phố năng động bậc nhất cả nước. Nhưng người ta không biết rằng người Sài Gòn dễ mến, đất Sài Gòn bao dung. Sài gòn là nơi nuôi dưỡng những ước mơ… Tôi vừa cười vừa bảo: “Ở Ea Phê này không có người nào níu kéo hả chị?”. Chị cười lấp lánh: “Ờ thì cũng có nhưng… “. Lại ba chấm lửng lơ giữa dòng. Chị không nói thêm nhưng tôi đoán chị sẽ ra đi, mặc dù chị còn lưu luyến mảnh đất này lắm lắm. Miền đất này là nơi gắn bó máu thịt; nó là niềm hạnh phúc vô biên và cũng là chiếc vòng dây kềm tỏa con đường phía trước. Một người mệt mỏi trở về, một người hăm hở ra đi. Chẳng có ai đúng ai sai, không có con đường chung cho tất cả mọi người, chỉ có con đường riêng mà mỗi người phải tự mình chọn lấy và bước đi. Tôi nghe tiếng vọng mơ hồ phả về từ Sài Gòn phố thị rực rỡ đèn màu. Tiếng vọng ấy có sức hút đầy ma lực, không phải tiền bạc mà là khát vọng sống vươn lên.
Khuya, chúng tôi rủ nhau đi uống cà phê, ở Ea Phê, giữa núi rừng Đắk Lắk này không nhiều quán xá lập lòe biển hiệu, không phim hay, không cả những tiện nghi sang trọng. Chỉ có những quán cà phê lẻ loi bên đường cho những tâm sự vắn dài, những cuộc hàn huyên hạnh ngộ. Tôi không nhớ rõ tên quán là gì chỉ nhớ man mán nó mang âm hưởng và hơi hướm sân vườn Sài Gòn trong phong cách trang trí… xanh, đỏ, mờ, ảo… một ít nước non cây kiểng và những bản thư pháp thơ đường xướng họa. Thật là lạ ở thành phố đất chật người đông, người Sài Gòn thèm những khoảng không riêng tư, thèm một khoảng xanh giữa lòng bụi bặm mới cần đến cà phê sân vườn như một sự cứu rỗi và giải thoát. Đối với người Sài Gòn mà nói cà phê không phải để uống cà phê, cà phê là bù khú, tán ngẫu, là tâm tình nên cần lắm những khoảng lặng mộc mạc quê mùa. Còn ở đây, giữa lòng đại ngàn thẳm xanh, người ta lại chịu khép mình vào bốn bức tường vào cái không thật mang nhãn hiệu thật. Có điều chỗ ngồi chật hẹp nhưng ấm cúng, chúng tôi đã nói với nhau rất nhiều chuyện: tình yêu, gia đình… tranh luận sôi nổi chuyện rất thời sự nóng bỏng kiểu như chuyện dài giáo dục Việt Nam. Chỉ có Huấn không tham gia tích cực tự bỏ ra ngoài hóng gió. Giao nói nhỏ với tôi: “Em thích những người như vậy, biết sống vì bản thân mình”. Tôi mỉm cười đồng thuận. Đối với tôi, Huấn, Giao những người ngồi đây đã đang sẽ là bạn. Mỗi người một quê, một hoàn cảnh lẽ đương nhiên nhìn nhận sự việc hoàn toàn khác nhau. Họ và tôi phải duyên hạnh ngộ, điều đó chẳng phải đã tuyệt diệu lắm rồi sao. Còn mong gì hơn thế nữa!
Khuya, chúng tôi về nhà trên con đường vắng lặng không một bóng người trải đầy ánh trăng. Trăng mùng mười non lắm không thật tròn trịa nhưng đủ sức soi sáng những bóng dài lê thê. Một người nào đó thốt lên: “Ôi trăng! Chúng mình ngắm trăng nhé!”. Ý tưởng ấy được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt… Chúng tôi ngoặc vào một con đường nhỏ lúp xúp dưới những tán cây tối sâm sẫm giữa ngập tràn im lặng. Cuối con đường, cánh cửa mở ra, dường như chúng tôi đang đi vào một thế giới khác. Cổ tích, thần tiên, mơ hồ, hư ảo… Tôi lặng người đi trong phút chốc, cảm giác rung động giống như cô gái mới lớn ngỡ ngàng nhìn thấy bạch hoàng tử phóng ngựa như bay từ giấc mơ xa xăm hư thực. Tôi đang đứng giữa cánh đồng lúa mênh mông ánh trăng… Trăng rải vàng sóng sánh trên ngọn lúa, thả rơi những sợi tơ nhỏ nhẹ dịu dàng khắp không gian và đổ lênh láng con đường chúng tôi đi thứ ánh sáng mờ nhạt run rẩy. Đêm lặng lẽ nhưng không cô tịch, bầu trời như tấm màn thêu xênh xang xám bạc. Gần xa mờ mờ bóng trăng khuyên khuyết hiện vẻ ôn nhu đằm thắm. Chúng tôi ngồi dưới trăng, trên những ngọn cỏ thẫm đen lầm lũi bên lề. Hư không chìm đắm trong cái vô tận của màn đêm của trăng của thảm lúa vàng một màu trăng không bến bờ. Trời lặng thinh không một chút gió, những ngọn cau tít tắp dang tay đứng im lìm in bóng tối đen trên nền trời. Khung cảnh hư huyền diệu vợi. Đêm yên ắng, chỉ có tiếng côn trùng rả rích vỗ về. Thoang thoảng đâu đây một mùi hương thơm thảo là lạ, hương lúa non, hương cỏ cây, hương sương khuya, hương của đất trời mùa thu cao nguyên… tất cả hợp lại thành bản hòa tấu âm âm từ ngút ngàn sơn mạch. Chúng tôi đùa cợt, kể nhiều câu chuyện vui, đôi khi phá lên cười sằng sặc. Tiếng cười vỡ ra như tiếng pháo mùa xuân đon đả xé toan màn đêm tịch mịch vẳng đi xa thật xa hòa vào ánh trăng. Trăng miền sơn cước càng đẹp bao nhiêu hạnh phúc càng lắng đọng bấy nhiêu, hạnh phúc nên khuya lắm rồi mà chúng tôi vẫn còn ngồi bên nhau để sương lạnh dần thấm vào lòng…
Ngày cuối cùng, đêm cuối cùng, những giờ phút cuối cùng, chỉ vài giờ nữa chúng tôi sẽ rời xa vùng đất cao nguyên huyền thoại. Ngày mai, rồi thành phố sẽ làm lãng quên tiếng đại ngàn vẫy gọi hoang dại; hoặc nếu nhớ, cũng chỉ là những ký ức buồn vui rời rạc. Nửa đêm về sáng, mọi người đã yên giấc, chỉ có tiếng con tắc kè cô đơn đùng đục trầm buồn thi thoảng cất lên quạnh quẽ. Đêm trước tôi đã nghe được thứ tiếng gọi bạn tình tha thiết này rồi nhưng đêm nay tự dưng gây cho tôi nhiều cảm xúc. Nó giống như tiếng kêu tuyệt vọng không hồi đáp đi vào cõi mênh mông nào đó, từa tựa như tiếng giọt nước rơi tõm xuống mặt hồ tan thành những vòng tròn lan đi, lan đi, lan đi rồi tan biến giữa điệp trùng sóng nước… tôi thiếp đi trong mơ màng…
(còn tiếp)
Hồng Hòa Vi
BÌNH LUẬN